CÁC LOÀI LAN TRÂN CHÂU TẠI VQG PHƯỚC BÌNH
( THANH THIÊN QUỲ :Nervilia )

Chi lan Nervilia gồm khoảng 65 loài, phân bố rộng tại vùng cận sa mạc Sahara, Úc và cả tại những quốc gia hải đảo Thái Bình Dương. Riêng ở Việt Nam đã ghi nhận được 8 loài, tại Vườn Quốc Gia (VQG) Phước Bình mới ghi nhận được 03 loài hiện hữu.
Đặc điểm chung của loài Lan Nervilia là cây mọc thành từng nhóm, rụng hết lá vào mùa Đông, chỉ còn lại những củ mầm ở duới mặt đất để tránh lạnh. Vào đầu mùa Xuân khi thời tiết ấm áp, và có những cơn mưa đầu mùa, củ nẩy mầm và mọc lên những phác hoa. Sau khi hoa rụng, phiến lá mới hình thành, và chỉ có một lá nên còn gọi Lan Một lá. Đây là đặc điểm khó khăn cho công tác định danh bởi khi có hoa thì không có lá và ngược lại. Lá thường có những lông nhỏ, có loài phiến lá màu xanh trong và có loài lá có đốm nâu đen. Hoa từ 2-15 chiếc tùy theo loài, thường có màu nâu, trắng, xanh hay có thể pha trộn như kiểu hoa lan Laelia. Tại VQG hoa nở trong khoảng từ tháng 3 đến đầu tháng 6 hàng năm.
1.Nervilia plicata: Trân châu xếp - Phạm Hoàng Hộ (PHH); Thanh thiên quỳ lá xếp - Trần Hợp (TH). Là loài Địa lan có thân to tròn, không có lá lúc có hoa. Phiến lá hình tam giác rộng 5-7 cm, xếp nếp theo gân, mỏng. Lá xanh lục hay tím xạm, đôi khi màu tím nhưng có những đốm vàng. Trục mang 2-3 hoa; phiến hoa thon, trắng hay lục nhạt; môi hồng rất nhạt, đậm ở chót, gốc hơi xanh có 3 thùy cạn, không lông. Củ màu trắng nhạt, hình thoi phồng, đường kính 5-20 mm. Tại Việt Nam chỉ gặp tại các tỉnh phía Nam, ở VQG Phước Bình mới phát hiện tại tiểu khu 24.

2. Nervilia fordii: Trân châu (PHH); Thanh thiên quỳ (TH); Lan một lá; Lan cờ.
Là loài Địa lan nhỏ, cao 10-30 cm, sống nhiều năm: lụi vào mùa khô và mọc lên hàng năm vào mùa Xuân. Thân rễ tròn, dạng củ, phần trên mặt đất rất ngắn. Chỉ có một lá duy nhất, phiến lá hình tim tam giác, rộng 4-8 cm, cuống dài. Cụm hoa hình bông, thường xuất hiện trước khi mọc lá; lá bắc nhọn, dài 6-7 mm. Hoa màu trắng, đốm tím hồng; phiến hoa hình dầm, dài 1cm; môi tam giác, thùy nhọn tròn, có lông dầy; cột cao 5-7 mm. Mới phát hiện tại tiểu khu 24 VQG Phước Bình.

3.Nervilia aragoana: Trân châu xanh (PHH); Thanh thiên quỳ xanh (TH).
Tên đồng nghĩa: Nervilia carinata; Pogonia flabelliform is P. nervilia.
Loài Địa lan nhỏ, cao duới 20 cm, có củ tròn to 15 mm, cây ra hoa trước rồi mới ra lá. Chỉ có một lá, lá màu lục nhạt với phiến to, tròn, gân chân vịt, rộng 10-25 cm, cuống dài 10-20 cm. Cụm hoa cao 20-30 cm; hoa thưa vàng hơi xanh; phiến hẹp dài 1.3 cm; môi xoan có 3 thùy nhỏ, thùy cuối lõm, mép có lông dài. Mới ghi nhận: tại tiểu khu 24 VQG Phước Bình.
Các loài Lan thuộc chi Nervilia tại VQG Phước Bình tương đối phong phú, đây là nhóm Lan hiếm, các bộ phận của cây đều có thể làm thuốc chữa bệnh, nguy cơ bị người dân thu hái khó kiểm soát. Cần thiết có các hoạt động điều tra khảo sát đánh giá số lượng loài và phân bố để có các giải pháp bảo tồn hữu hiệu. Rất mong các các nhân, tổ chức nghiên cứu bảo tồn trong ngoài nước quan tâm, VQG Phước Bình sẳn sàng hợp tác nghiên cứu trên tất cả các lĩnh vực đa dạng sinh học đặc biệt các loài Lan của VQG./.
Hoàng Thế Hưng Long
BQL VQGPhước Bình